Purpose only for share, i hope you can enjoy!

ADVERTISEMENT

Subscribe Via E-mail

0 Những Tài Liệu Phương Tây Khẳng Định Chủ Quyền Của Việt Nam!

AD
2.1.2 Những tư liệu của Trung Quốc và Phương Tây minh chứng chủ quyền Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

+ Những tư liệu của Trung Quốc minh chứng chủ quyền của Việt Nam tạiquần đảo Hoàng Sa và Trường Sa :
Trong thời gian chưa có sự tranh chấp chủ quyền, tức trước năm 1909, rất nhiều tài liệu của Trung Quốc cũng như Phương Tây đều gián tiếp hay trực tiếp xác nhận chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
· Trước tiên là Hải Ngoại Kỷ Sự của Thích Đại Sán (người Trung Quốc) năm 1696 (2.20).
Trong quyển 3 của Hải Ngoại Kỷ Sự đã nói đến Vạn Lý Trường Sa tức Hoàng Sa và đã khẳng định Chúa Ngãi đã hành sử chủ quyền của mình trên quần đảo này như sau:
"Bởi vì có những cồn cát nằm thẳng bờ biển, chạy dài từ Đông Bắc qua Tây Nam; động cao dựng đứng như vách tường, bãi thấp cũng ngang mặt nước biển; mặt cát khô rắn như sắt, rủi thuyền chạm phải ắt tan tành; bãi cát rộng cả trăm dặm, chiều dài thăm thẳm chẳng biết bao nhiêu mà kể, gọi là “Vạn Lý Trường Sa” , mù tít chẳng thấy cỏ cây nhà cửa; nếu thuyền bị trái gió trái nước tấp vào dầu không tan nát cũng không gạo không nước, trở thành ma đói mà thôi. Quảng ấy cách Đại Việt bảy ngày đường, chừng bảy trăm dặm. Thời Quốc vương trước, hằng năm sai thuyền đi đánh cá đi dọc theo bãi cát, lượm vàng bạc khí cụ của các thuyền lui tấp vào. Mùa thu nước dâng cạn, chảy rút về hướng Đông bị một ngọn sóng đưa thuyền có thể trôi xa cả trăm dặm; sức gió chẳng mạnh , sợ có hiểm hoạ Trường Sa". [116,125]

Thích Đại San đa kể lại kinh nghiệm hải trình qua vùng Hoàng Sa tức Vạn Lý Trường Sa và cho biết ước lượng khoảng cách từ vùng Hoàng Sa đến Đại Việt khoảng bảy ngày đường. Những tài liệu của Việt Nam như đã cho biết giữa các đảo phải đi đến mất 1 ngày đường, nên nếu phải trải qua hàng trăm dặm tới Đại Việt đi mất tới 7 ngày đường, trong khi từ bờ biển Việt Nam đi tới đảo gần nhất của quần đảo Hoàng Sa chỉ mất 3 ngày 3 đêm là hợp lý.

Thích Đại Sán viết “Thời Quốc Vương trước , ở đây hàng năm sai thuyền đi đánh cá đi dọc theo bãi cát, lượm vàng bạc, khí cụ của các thuyền bị đắm ở Hoàng Sa” cũng phù hợp với các tài liệu Việt Nam về hoạt động đội Hoàng Sa, song rõ hơn là xác định thời gian trước thời Quốc Vương Nguyễn Phúc Chu (1691 - 1725), có nghĩa là ít ra cũng ở thời Nguyễn Phúc Trăn (1687 - 1691) hoặc các Chúa Nguyễn khác. Trong thời gian này, chưa có tranh chấp nên Thích Đại Sán là người Trung Quốc đã có thái độ khách quan ghi nhận chủ quyền của Đại Việt đối với Hoàng Sa như trình bày ở trên. Cũng như các phần lãnh thổ khác của Đại Việt, chẳng bao giờ có các văn bản của triều đình Trung Quốc xác nhận. Truyền thống chiếm hữu lãnh thổ của Phương Tây cũng chẳng bao giờ công bố cho các nước khác được biết. Chỉ có thực tế lịch sử xảy ra như thế nào thì những người am hiểu tường tận như Thích Đại Sán biết rõ sự việc xảy ra ở Đại Việt xứ Đàng Trong đã ghi nhận như thế.

· Các bản đồ cổ Trung quốc do chính người Trung quốc vẽ từ năm 1909 trở về trước đều minh chứng Tây Sa và Nam Sa chưa thuộc về Trung quốc.
Khảo sát tất cả các bản đồ cổ của Trung quốc từ năm 1909 trở về trước, người ta thấy tất cả các bản đồ cổ nước Trung quốc do người Trung quốc vẽ không có bản đồ nào có ghi các quần đảo Tây Sa, Nam Sa hay bất cứ các đảo nào mà Trung quốc suy diễn là Tây Sa và Nam Sa có nằm trong các bản đồ cổ ấy. Tất cả các bản đồ cổ ấy đều xác định đảo Hải Nam là cực Nam của biên giới phía Nam của Trung quốc.

Chẳng hạn như "Dư địa đồ" đời Nguyên của Chu Tư Bản được vẽ thu nhỏ lại trong sách "Quảng Dư đồ" của La Hồng Tiên quyển 1, thực hiện năm 1561, phần cực Nam lãnh thổ Trung Quốc là đảo Hải Nam [58], (hình 2. 36).
- "Thiên Hạ Thống Nhất Chi Đồ" đời Minh trong Đại Minh Nhất Thống Chí, năm 1461, quyển đầu, đã vẽ cực nam Trung Quốc là đảo Hải Nam [58], (hình 2.37)
-"Hoàng Minh Đại Thống Nhất Tổng Đồ" đời Minh, trong Hoàng Minh Chức Phương Địa Đồ của Trần Tổ Thụ, 1635, quyển thượng đã vẽ phần cực nam Trung Quốc là đảo Hải Nam [58], (hình 2.38).
-"Lộ Phủ, Châu Huyện Đồ" đời Nguyên vẽ lại trong Kim Cổ Dư Đồ của Nguyễn Quốc Phụ đời Minh, năm 1638, quyển hạ đã vẽ phần cực nam Trung Quốc là đảo Hải Nam [58], (hình 2.39)
- "Hoàng Triều Phủ Sảnh, Châu , Huyện Toàn Đồ" đời Thanh, khuyết danh, năm 1862, vẽ theo "Nội Phủ Địa Đồ" gồm 26 mảnh mang tên "Đại Thanh Trực Tỉnh Toàn Đồ" đã vẽ phần cực nam Trung Quốc là đảo Hải Nam [58], (hình 2.40)
- "Hoàng Triều Nhất Thống Dư Địa Tổng Đồ" trong tập Hoàng Triều Nhất Thống Dư Địa Tổng Đồ (khuyết danh), năm 1894, đã vẽ phần cực nam Trung Quốc là đảo Hải Nam [58], (hình 2.41)
- "Quảng Đông Tỉnh Đồ" trong Quảng Đông Dư Địa Toàn Đồ, do quan chức tỉnh Quảng Đông soạn năm 1897, có lời tựa của tổng đốc Trương Nhân Tuấn đều không thấy bất kỳ quần đảo nào ở biển Nam Trung Hoa [58] (hình 2.42).
- " Đại Thanh Đế Quốc" , trong tập "Đại Thanh Đế Quốc Toàn Đồ" do Thường Vụ An Thư Quán Thượng Hải, 1905, tái bản lần thứ 4 năm 1910, đã vẽ phần cực Nam lãnh thổ Trung quốc là đảo Hải Nam [58], (hình 2.43)
- "Đại Thanh Đế Quốc Vị Trí Khu Hoạch Đồ " (1909), cũng như bản đồ trên đã vẽ phần cực nam Trung Quốc là đảo Hải Nam [58], (hình 2.44)
Sau năm 1909, nhiều bản đồ Trung Quốc đã vẽ Tây Sa, Nam Sa trong lãnh thổ của Trung Quốc, trong đó có "Trung Quốc Cương Giới Biến Thiên Đồ" năm 1939, đã vẽ ranh giới thuộc quốc đời Thanh xuống tận gần Indonesia, gồm cả Triều Tiên [58] (hình 2.45).

Ngoài ra, một số tư liệu cổ mà Trung Quốc trưng ra để chứng minh sự phát hiện sớm của người Trung Quốc (mà thực ra chỉ là suy diễn không có cơ sở vững chắc để chứng minh chủ quyền của Trung Quốc) lại đều là các tài liệu viết về nước ngoài như Giao Châu Dị Vật Chí của Dương Phù. Xứ Giao Châu là Việt Nam cũng chỉ "Bắc thuộc" một thời gian nhất định. Cũng thế các tác giả trên đã dẫn Chư Phiên Chí của Triệu Nhữ Quát (chứ không phải Triệu Nhữ Thích), đời Nam Tống (1225) có nhắc đến Thiên Lý Trường Sa, Vạn Lý Thạch Đường ở Phiên Quốc , có nghĩa nước khác chứ không phải Trung Quốc. Tư liệu cổ Trung quốc cũng dẫn Phù Nam Truyện của Khang Thái (đời Ngô Tam Quốc), Nam Châu Dị Vật Chí của Vạn Chấn (đời Ngô). Chư Phiên Đo đời Tống lại xác định giới hạn của Trung Quốc với các nước khác ở Giao Dương tức Giao Chỉ Dương. Giao Chỉ Dương hay Biển Giao Chỉ lại là Vịnh Bắc Bộ trong khi Hoàng Sa, Trường Sa lại cách xa Vịnh Bắc Bộ… Như thế các tài liệu cổ trên đã gián tiếp chứng minh Hoàng Sa và Trường Sa mà Trung Quốc gọi là Tây Sa, Nam Sa không thuộc về Trung Quốc mà thuộc các nước khác mà Trung Quốc gọi là Phiên Quốc, hay Giao Châu , Nam Châu.

Sau khi Trung Quốc dùng vũ lực chiếm đóng Hoàng Sa tháng 1 nănm 1974, nhiều đoàn khảo cổ Trung Quốc đến các đảo thuộc quần đảo này và gọi là “phát hiện” nhằm nhiều cổ vật như tiền cổ, đồ sứ, đồ đá chạm trổ trên các hòn đảo này, song đều không có giá trị gì để minh xác chủ quyền Trung Quốc bởi đồng tiền La Mã đã từng được phát hiện ở Óc Eo (An Giang), ở miền Nam Việt Nam nhưng không thể chứng minh rằng Óc Eo (An Giang) thuộc chủ quyền La Mã. Các nhân viên khảo cổ Trung Quốc còn phát hiện được 14 ngôi miếu cô hồn và cho rằng chúng có từ thời Minh Thanh. Trong các ngôi miếu cô hồn ấy lại có 2 ngôi miếu ở đảo Vĩnh Hưng, tức đảo Phú Lâm (Ýle Boisée) đã được nhóm Hàn Chấn Hoa biên chép lại từ bài báo “Từ quần đảo Tây Sa trở về” trên Đại Công Báo Hương Cảng , ngày 31 tháng 3 năm 1957, ghi rõ :
“Trên đảo Vĩnh Hưng [ Phú Lâm ] hiện nay có 2 ngôi miếu mà ngư dân tự xây dựng nên. Miếu mặt Nam gọi là “Cô hồn miếu”, miếu ở mặt Bắc gọi là “Hoàng Sa Tự” (Hàn Chấn Hoa, Lâm Kim Chi, Ngô Phượng Bân, Ngã Quốc Nam Hải Chư Đảo Sử Liệu Hội Biên, thiên thứ 1, trang 115 )
“Hoàng Sa Tự” là bằng chứng hiển nhiên vết tích của việc xác lập chủ quyền của Việt Nam mà các vua chúa Việt Nam, trong có thời Minh Mạng sai thủy quân ra Hoàng Sa xây dựng miếu, chùa như đã trình bày trong chương này.

Năm 1494, Giáo Hoàng Alexandre VI đã dùng quyền lực tinh thần để phân các vùng ảnh hưởng trên thế giới cho hai nước Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Sự phân chia này được chính thức hoá trong hiệp ước Tordesillas 1494. Do đấy, các đội thương thuyền của Bồ Đào Nha đã đi về phương Đông tức Ấn Độ và Trung Quốc. Bồ Đào Nha đã thiết lập một thương điếm ở Ma Cao (Trung Quốc) từ năm 1511 và biến Ma Cao thành thuộc địa từ 1557. Từ đó các thương thuyền qua lại Biển Đông và có những nhà hàng hải Bồ Đào Nha thám hiểm vùng Biển Đông trong đó có đảo Hoàng Sa.
Nhà hàng hải Bồ Đào Nha Fernão Mendes Pinto, một giáo sĩ Dòng Tên đã viết cuốn sách du ký Peragrinacão (dịch ra tiếng Pháp là Pérégrination nói về chuyến du hành năm 1545, được xuất bản tại Lisbonne năm 1614.trong đó FM., Pinto đã mô tả về quần đảo Hoàng Sa mà ông gọi là Pulo Pracela (Pracela tiếng Bồ Đào Nha có nghĩa là san hô, Pulo có nghĩa là đảo, cù lao). Cũng trong thời gian này, các nhà truyền giáo đi theo các thương thuyền đã đến truyền đạo vào Đàng Ngoài của Việt Nam vào 1533. Con đường hàng hải vào đầu thế kỷ XVI từ Malacca đến Macao đã bắt đầu gặp trở ngại, các thương thuyền bị đụng vào các bãi đá ngầm ở Biển Đông. Qua những cuộc khảo sát với rất nhiều nhật ký hải trình của các nhà thám hiểm Bồ Đào Nha trong nửa sau thế kỷ XVI đã nói về một dải cao tầng bãi đá ngầm Pullo Sissir (Baixos de Pullo Sissir), (vĩ độ 10) mà người ta thấy rất nguy hiểm, càng ngày người ta càng thấy rất rộng, bao quát cả một vùng đảo Hoàng Sa và Trường Sa ngày nay, tương tự như những hiểu biết của các nhà địa lý của Việt Nam cùng thời. Càng ngày người ta càng có nhiều thông tin song chỉ lờ mờ rằng có rất nhiều những bãi đá ngầm nổi lập lờ trên mặt nước chỉ cao khoảng chừng một đầu người, luôn luôn bị sóng biển che lấp. Ban đêm, có khi tàu thuyền đi đến sát mũi nó mới nhận ra được. Có một số đảo phủ cỏ và muối, một số bãi cát. Những hải trình không gặp đá ngầm thường rất hẹp và nếu người ta đi qua được yên lành thì chỉ nhờ có Chúa phù hộ cho mà thôi. Các tác giả khuyên các nhà hàng hải chớ bao giờ rời xa bờ biển Champa.
Cũng giống như các nhật ký hải trình, các tấm hải đồ của các nhà hàng hải Bồ Đào Nha trong nửa sau thế kỷ XVI phản ánh một quan niệm, hiểu biết chung về một quần đảo mà họ gọi là Pracel giống như một dải "ruban" dài hay như một lưỡi dao dài cong chứ không gãy khúc, kéo dọc suốt ngoài khơi với bờ biển Đàng Trong lúc bấy giờ. Những tấm bản đồ hiếm có tìm thấy xưa nhất có ghi nhận quần đảo Hoàng Sa (Parcel) của người Bồ Đào Nha còn là những bản đồ vào giữa thế kỷ XVI. Đó là bản đồ Bartholomen Velho (1560) (hình 2.46) được ghi lại trong sách của P.Y. Manguin và bản đồ khuyết danh trong cuốn Livro da Marinharia, ghi lại trong cuốn Peregrination của F.M. Pinto.(hình 2.47). Hai tấm bản đồ có ghi niên đại 1560 tương đối giống nhau đã phản ánh trung thực sự hiểu biết lúc bấy giờ của người Phương Tây về Hoàng Sa. Nói chung người Phương Tây lúc bấy giờ mà tiêu biểu là người Bồ Đào Nha chưa hiểu biết rõ về Hoàng Sa cũng chưa biết các đảo này thuộc về chủ quyền của nước nào. Hình dáng Hoàng Sa mà người Bồ ghi hàng chữ J Do Pracel trên cũng ở phía Bắc một dải dài những chấm nhỏ chạy từ khoảng Cù Lao Chàm ở ngoài khơi Hội An, được gọi là Pulo Campello tới Cù Lao Thu (đảo Phú Qúi) được ghi bằng Pulo Sissir, ngoài khơi Phan Thiết ngày nay. Cái dải dài rộng và những chấm đậm ở phiá Bắc, càng về phía Nam càng hẹp lại và tận cùng bằng cái chấm nhỏ giống như một dải “ruban” nhọn phía dưới. Dải “ruban” Pracel ấy trong “Livro da Marinharia” của FM Pinto được ghi nhiều chấm hơn, phía Bắc đậm hơn, bề ngang phần dưới hẹp hẳn.

Đến cuối thế kỷ XVI, bản đồ Fernao Vaz Dourado (1590) (hình 2.48) cho thấy người Bồ Đào Nha cũng chưa tăng sự hiểu biết gì thêm. Song người Hà Lan đã bắt đầu hoạt động rất mạnh ở vùng này với bằng chứng là bản đồ của Van - Langren năm 1595 (hình 2.49) hết sức phong phú, rất nhiều chi tiết nhất là tại vùng Trung Bộ. Tại Bắc Bộ cũng có nhiều chi tiết rõ hơn nhất là sông Hồng đã được vẽ bắt nguồn từ Vân Nam ghi là Suinam. Ở phía Tây Bắc Pracel có đảo Hải Nam được ghi là I Ainam. Ở phía Đông Bắc và Đông thì không có ghi địa danh nào cả, song lại được vẽ bởi những chấm đậm và liền nhau. Điều đặc biệt ở bản đồ Van - Langren (1595) trên phần đất liền, ngoài địa danh rất đáng lưu ý là mũi Varella còn có bờ biển ghi là Costa da Pracel ở đối diện với Pulo Canton (Cù Lao Ré) thuộc địa phận tỉnh Quảng Ngãi.

Bước qua thế kỷ XVII, do nhiều nguyên nhân, người Bồ Đào Nha đã mất thế độc quyền ở Biển Đông. Một số quốc gia khác đã vượt trội, tăng cường sự có mặt của mình ở vùng biển này, đi lại ngày càng nhiều chung quanh quần đảo Hoàng Sa. Địch thủ có thế lực lớn mạnh nhất của Bồ Đào Nha lúc này là Hà Lan. Tiếp theo là Anh và Pháp. Khác với phương thức kinh doanh của người Bồ Đào Nha trong thế kỷ trước, các hoạt động hàng hải của Hà Lan, Anh và Pháp trong thế kỷ này chủ yếu dựa vào những công ty thương mại quốc tế, được các chính quyền nhà nước ấy ủy quyền và bảo trợ, điển hình là các công ty Đông An - Hà Lan (V.O.C.) thành lập năm 1602 và các công ty Đông An Anh (East India Company) thành lập năm 1600. Hoàng Sa nằm trên các tuyến đường giao thương quốc tế lúc bấy giờ đã được người Tây Phương coi là một vị trí chiến lược trọng yếu.
Sang thế kỷ XVIII, những cuộc khảo sát Biển Đông của các công ty Đông An rất kỹ càng. Từ cuộc thám hiểm đo đạc của phái bộ Kergariou - Locmacria vào những năm 1778 - 1787 ở Biển Đông đã giúp cho người Phương Tây hiểu biết rõ hơn, trung thực hơn, không còn lờ mờ và sợ hãi như những huyền thoại trước đây về Biển Đông. Các hải trình tương đối an toàn hơn, tuy họ không hề phủ nhận sự nguy hiểm và hoạ đắm tàu ở khu vực quần đảo Paracels.

Người Pháp qua các hoạt động của các giáo sĩ, thương gia nhất là từ khi giám mục Pigneau de Béhaine giúp Nguyễn Ánh về quân sự, đã bắt đầu quan tâm đến Việt Nam và kế thừa những hiểu biết của người Bồ Đào Nha, Hà Lan, đã biết rất rõ về nội tình chính trị Đàng Trong cũng như Đàng Ngoài thời phân tranh cũng như khi thống nhất. Từ đó, người Phương Tây mới biết rõ chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa.

Như thế, chính người Pháp mới bắt đầu cung cấp những tài liệu xác thực về sự xác lập chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

· Nhật Ký trên tàu Amphitrite (năm 1701) xác nhận Paracels là một quần đảo thuộc về nước An Nam.
Các thư từ nhật ký của người Tây Phương, trong đó có người Pháp, đã được tập hợp thành bộ “Lettres Edifiantes et Curieuses” của Archives des Missions Étrangères de Paris, Paris , 1838, 4 vols.
Trong tài liệu này, có nhật ký của chiếc tàu Amphitrite chở các giáo sĩ Pháp qua quần đảo Paracels vào năm 1701 ghi như sau:
“Người ta cho tàu nhổ neo, gió rất tốt. Và sau đó một thời gian đi đến mỏm đá Paracels. Paracels là một quần đảo thuộc về nước An Nam. Đó là một bãi đá ngầm khủng khiếp có đến hàng trăm dặm, rất nhiều lần đã xảy ra các nạn đắm tàu ở đó”. [66]
· “ Le Mémoire sur la Cochinchine” của Jean Baptiste Chaigneau (1769 - 1825), viết vào những năm cuối đời Gia Long (1816 - 1819) đã khẳng định năm 1816 vua Gia Long đã xác lập chủ quyền Việt Nam trên quần đảo Paracels.
Jean Baptiste Chaigneau (1769 - 1825) được vua Gia Long đặt tên là Nguyễn Văn Thắng, phong là Thắng Toàn Hầu, từng theo giúp Nguyễn Anh chống Tây Sơn, đã thay J. M. Dayot vào cuối năm 1796 trông coi tàu Phi Long, có dự trận Thị Nại 1801, hoạt động ở Quảng Nam - Huế. Ông trông coi việc tiếp tế cho quân đội ở Phú Xuân (sắc ngày 16 -3 - 1802).
Ông viết hồi ký nhan đề “Le mémoire sur la Cochinchine” được A. Salles, một viên chức thanh tra thuộc địa công bố trên Bulletin des Amis du Vieux Huế, n02, Avril - Juin 1923, trong đó có đoạn viết :
“Nước Cochinchine mà vua bây giờ xưng đế hiệu (Hoàng đế) gồm xứ Đàng Trong (Cochinchine proprement dite), xứ Đông Kinh (Tonquin), một phần xứ Cao Miên, một vài đảo có dân cư không xa bờ bể và quần đảo Paracels hợp thành bởi những đảo nhỏ, đá ngầm và mỏm đá không dân cư. Chỉ đến năm 1816 đương kim hoàng đế mới lấy chủ quyền trên quần đảo ấy" [36, 13] [177]
· “Univers, histoire et description de tous les peuples, de leurs religions, moeurs et coutumes” của giám mục Taberd xuất bản năm 1833 cho rằng hoàng đế Gia Long chính thức khẳng định chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa năm 1816.
Giám mục Jean Louis Taberd trong cuốn “Univers, histoire et description de tous les peuples, de leurs religions, moeurs et coutumes”, xuất bản năm 1833 viết về Paracels như sau:
“Chúng tôi không đi vào việc kê khai những hòn đảo chính yếu của xứ Cochinchine. Chúng tôi chỉ xin lưu ý rằng từ hơn 34 năm nay, quần đảo Paracels, mà người Việt gọi là Cát Vàng hay Hoàng Sa (có nghĩa là Cát Vàng) gồm rất nhiều hòn đảo chằng chịt với nhau, lởm chởm những đá nhô lên giữa những bãi cát, làm cho những kẻ đi biển rất e ngại, đã được chiếm cứ bởi người Việt xứ Đàng Trong".
“Chúng tôi không rõ họ có thiết lập một cơ sở nào tại đó không; nhưng có điều chúng tôi biết chắc là hoàng đế Gia Long đã chủ tâm thêm cái đoá hoa kỳ lạ đó vào vương miện của ông, vì vậy mà ông xét thấy đúng lúc phải thân chinh vượt biển để tiếp thâu quần đảo Hoàng Sa, và chính là vào năm 1816 mà Ngài đã long trọng treo tại đó lá cờ của xứ Đàng Trong”. [66] [186]
· An Nam Đại Quốc Họa Đồ của giám mục Taberd xuất bản năm 1838 khẳng định Cát Vàng (Hoàng Sa) là Paracels và nằm trong lãnh hải Việt Nam. [27] (hình 2.50)
Bản đồ này được đính sau cuốn Tự Điển Việt - La Tinh nhan đề “Latino - Anamiticum” của giám mục Taberd từng làm thông dịch cho vua Minh Mạng từ tháng 11 năm 1826, xuất bản năm 1838. Bản đồ có chiều dài 80cm, ngang 44cm in trên loại giấy thường để in hoạ đồ. Nhan đề bản đồ được in bằng ba thứ tiếng: chữ Hán, chữ Quốc Ngữ và chữ La Tinh.
An Nam Đại Quốc Họa Đồ là một tài liệu phản ảnh sự tổng kết những hiểu biết sâu sắc và chính xác của người Phương Tây từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX về mối quan hệ giữa quần đảo Hoàng Sa và nước Đại Việt mà tác giả gọi là An Nam Đại Quốc. An Nam Đại Quốc Họa Đồ là một minh chứng rất hùng hồn khẳng định một cách rõ ràng :
1. Paracels là địa danh mà người Phương Tây chỉ quần đảo ở Biển Đông suốt thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX chính là Cát Vàng hay Hoàng Sa của Việt Nam. Trong bản đồ này có ghi chú “Paracels Seu Cát Vàng” . Tại Biển Đông không có đảo Hải Nam của Trung Quốc mà chỉ có đảo của Việt . Đảo ở khoảng vĩ độ 170 Bắc và kinh độ hơn 1110 Đông, có vẽ một số đảo (bằng một số dấu chấm) và ghi hàng chữ "Paracel Seu Cát Vàng". Từ Seu ( tiếng La Tinh) = " có nghĩa là", Cát Vàng ( tiếng Nôm) tức là "Hoàng Sa" (tiếng Hán Việt). Paracel = Cát Vàng = Hoàng Sa, là một khẳng định rõ ràng nhất quán chứ không phải suy diễn như Tây Sa của Trung Quốc.
2. Trong bản đồ An Nam Đại Quốc Hoạ Đồ không ghi đảo Hải Nam hay bất cứ đảo nào của các nước láng giềng và chỉ ghi "Paracel Seu Cát Vàng" mà thôi, chứng tỏ Paracel Seu Cát Vàng nằm trong lãnh thổ của An Nam Đại Quốc hay Đại Việt.
3. Địa danh Paracel ghi bên cạnh những chấm đánh dấu các đảo ở khoảng vĩ độ 160 Bắc (ngang vĩ độ cửa Tư Dung , Thừa Thiên ) lên đến vĩ độ 170 Bắc khoảng Cửa Tùng (Quảng Trị) và kinh độ 111,018 Đông. Điều này đã phản ảnh sự hiểu biết về Hoàng Sa của người Phương Tây đã rất chính xác và Hoàng Sa không còn chung với quần đảo Trường Sa nữa.
Trên phần đất liền ghi hàng chữ dài: "An Nam Quốc Seu Imperium Anamiticum" cùng hàng chữ "Cocincina interior" seu "An Nam Đàng Trong", ở phía Nam "Lũi Sầy" seu "Murus magnus separans Olim Utrumque regne " và "Cocincina exterior", Đàng Ngoài seu "Tunquinum", chứng tỏ nội dung bản đồ được vẽ không phải ở thời điểm 1838, mà đã được vẽ từ trước đó. Song bản đồ lại ghi các địa danh mới ra đời sau này như Bình Định Thành, Định Tường Thành... nên năm vẽ An Nam Đại Quốc Hoạ Đồ phải sau khi Nguyễn Anh đã chiếm thành Qui Nhơn.
Bản đồ vẽ bờ biển miền Nam Trung Bộ rất chính xác, còn miền Bắc, nhất là giáp ranh với Lào chưa thật chính xác. Sự hiểu biết của người Tây Phương về Việt Nam rất phong phú. Dù sao cho tới đầu thế kỷ XIX, người Phương Tây đã biết rất rõ về Việt Nam và Hoàng Sa.

(Nguồn: Spratly&Paracel blog's)

0 nhận xét:

Feeds Comments

Leave A Comment: